Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

PMI ngành sản xuất trên ngưỡng 50 điểm, đơn hàng mới tiếp tục tăng cao

13:33 | 04/09/2024

422 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam đạt 52,4 điểm trong tháng 8, giảm so với mức 54,7 điểm trong tháng 7 nhưng vẫn cho thấy mức cải thiện mạnh mẽ của các điều kiện kinh doanh vào thời điểm giữa quý III.

Sáng 4/9, S&P Global công bố báo cáo Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam.

Theo đó, chỉ số PMI ngành sản xuất của Việt Nam đạt 52,4 điểm trong tháng 8, giảm so với mức 54,7 điểm trong tháng 7 - mức điểm cao nhất kể từ tháng 11/2018. Báo cáo của S&P Global đánh giá, mặc dù PMI tháng 8 giảm so với tháng trước, nhưng các điều kiện kinh doanh vẫn cho thấy mức cải thiện mạnh mẽ vào thời điểm giữa quý III.

PMI ngành sản xuất trên ngưỡng 50 điểm, đơn hàng mới tiếp tục tăng cao
S&P Global đánh giá, mặc dù PMI tháng 8 giảm so với tháng trước, nhưng các điều kiện kinh doanh vẫn cho thấy mức cải thiện mạnh mẽ vào thời điểm giữa quý III (Ảnh minh họa)

Sự cải thiện của sức khỏe lĩnh vực sản xuất được thể hiện ở việc sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng cao. Cụ thể, số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng tháng thứ năm liên tiếp.

Báo cáo cho biết, nhu cầu khách hàng cải thiện đã khiến số lượng đơn đặt hàng mới tăng, và các công ty đã tăng sản lượng tương ứng. Trong một số trường hợp, mức độ ổn định tương đối của giá cả đã giúp các công ty có được các đơn đặt hàng mới. Ngoài ra, nhu cầu quốc tế được cải thiện cũng đã góp phần vào sự tăng trưởng về lượng đơn đặt hàng trong tháng qua.

Việc giá cả ổn định tương đối cũng được thể hiện qua dữ liệu chi phí đầu vào và giá bán hàng. Mặc dù cả hai dữ liệu này tiếp tục tăng, nhưng tốc độ tăng đã chậm lại đáng kể so với dữ liệu hồi tháng 7 với mức tăng yếu nhất trong 4 tháng trở lại đây.

Một số nhà sản xuất báo cáo giá nguyên vật liệu tăng, nhưng tốc độ tăng giá đã chậm lại trong bối cảnh áp lực cạnh tranh. Trong khi đó, một số trường hợp ghi nhận giá dầu giảm cũng là một nguyên nhân làm giảm chi phí vận tải.

Số lượng đơn đặt hàng mới tăng mạnh và áp lực về chi phí nhẹ bớt đã khiến các nhà sản xuất tăng mạnh hoạt động mua hàng trong tháng 8. Hơn nữa, tốc độ tăng đã nhanh hơn trong 4 tháng liên tiếp với mức nhanh nhất kể từ tháng 5/2022.

Hàng hóa đầu vào thường được sử dụng trực tiếp cho sản xuất. Điều này đồng nghĩa với việc tồn kho hàng mua tiếp tục giảm. Bên cạnh đó, tồn kho hàng thành phẩm cũng giảm khi tồn kho các sản phẩm đã hoàn thiện được chuyển cho khách hàng để đáp ứng yêu cầu đơn đặt hàng.

Trái ngược với sự tăng trưởng của hoạt động mua hàng, các nhà sản xuất đã giảm việc làm lần đầu trong 3 tháng trở lại đây khi xuất hiện các trường hợp thôi việc và chấm dứt hợp đồng lao động tạm thời.

Lực lượng lao động giảm vào thời điểm tăng số lượng đơn đặt hàng mới khiến lượng công việc tồn đọng tiếp tục tăng trong tháng 8. Lượng công việc chưa thực hiện đã tăng tháng thứ ba liên tiếp, và tốc độ tăng không thay đổi kể từ tháng 7.

Bình luận về kết quả khảo sát, ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, cho biết lĩnh vực sản xuất của Việt Nam có sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm lại so với mức đặc biệt cao được ghi nhận trong tháng 6 và tháng 7. Những mức tăng này luôn khó duy trì, và tốc độ tăng trưởng vẫn đáng kể nên có rất ít lý do phải lo ngại về khía cạnh này.

Tuy nhiên, một vấn đề mà các công ty đang gặp phải là tình trạng giảm việc làm, và điều này đang khiến việc hoàn thành các dự án trở nên khó khăn hơn và lượng công việc chưa thực hiện cũng tăng.

"Điểm tích cực hơn là về lạm phát, với cả chi phí đầu vào và giá cả đầu ra tăng yếu hơn nhiều trong tháng 8. Trên thực tế, đây được cho là một nhân tố góp phần làm số lượng đơn đặt hàng mới duy trì đà tăng. Về tổng thể, ngành sản xuất tiếp tục có nửa năm cuối tăng trưởng tốt tính đến thời điểm này, với nhiều việc phải giải quyết trong những tháng tới", Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence đánh giá.

D.Q

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank
  • bao-hiem-pjico
  • rot-von-duong-dai-agri
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 83,000 85,000
AVPL/SJC HCM 83,000 85,000
AVPL/SJC ĐN 83,000 85,000
Nguyên liệu 9999 - HN 82,850 83,150
Nguyên liệu 999 - HN 82,750 83,050
AVPL/SJC Cần Thơ 83,000 85,000
Cập nhật: 15/10/2024 00:47
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 82.700 83.700
TPHCM - SJC 83.000 85.000
Hà Nội - PNJ 82.700 83.700
Hà Nội - SJC 83.000 85.000
Đà Nẵng - PNJ 82.700 83.700
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.000
Miền Tây - PNJ 82.700 83.700
Miền Tây - SJC 83.000 85.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 82.700 83.700
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 82.700
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 82.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 82.600 83.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 82.520 83.320
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 81.670 82.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 75.990 76.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 61.300 62.700
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 55.460 56.860
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 52.960 54.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 49.620 51.020
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 47.540 48.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.440 34.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.030 31.430
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.270 27.670
Cập nhật: 15/10/2024 00:47
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,205 8,375
Trang sức 99.9 8,195 8,365
NL 99.99 8,275
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 8,225
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,295 8,385
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,295 8,385
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,295 8,385
Miếng SJC Thái Bình 8,300 8,500
Miếng SJC Nghệ An 8,300 8,500
Miếng SJC Hà Nội 8,300 8,500
Cập nhật: 15/10/2024 00:47

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,293.61 16,458.19 16,986.79
CAD 17,569.25 17,746.72 18,316.70
CHF 28,211.94 28,496.91 29,412.16
CNY 3,421.14 3,455.70 3,566.69
DKK - 3,569.92 3,706.76
EUR 26,439.60 26,706.67 27,890.30
GBP 31,592.47 31,911.58 32,936.50
HKD 3,114.90 3,146.36 3,247.41
INR - 294.60 306.38
JPY 160.56 162.18 169.90
KRW 15.83 17.59 19.09
KWD - 80,922.77 84,160.92
MYR - 5,722.93 5,847.95
NOK - 2,267.28 2,363.62
RUB - 246.76 273.17
SAR - 6,597.54 6,861.54
SEK - 2,343.37 2,442.95
SGD 18,525.15 18,712.28 19,313.27
THB 660.34 733.71 761.83
USD 24,630.00 24,660.00 25,020.00
Cập nhật: 15/10/2024 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,630.00 24,650.00 24,990.00
EUR 26,563.00 26,670.00 27,788.00
GBP 31,760.00 31,888.00 32,878.00
HKD 3,128.00 3,141.00 3,246.00
CHF 28,358.00 28,472.00 29,367.00
JPY 162.31 162.96 170.38
AUD 16,382.00 16,448.00 16,957.00
SGD 18,656.00 18,731.00 19,282.00
THB 726.00 729.00 762.00
CAD 17,670.00 17,741.00 18,276.00
NZD 14,866.00 15,371.00
KRW 17.57 19.37
Cập nhật: 15/10/2024 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24665 24665 25025
AUD 16363 16463 17026
CAD 17667 17767 18318
CHF 28496 28526 29320
CNY 0 3474.2 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3644 0
EUR 26708 26808 27681
GBP 31943 31993 33095
HKD 0 3180 0
JPY 163.33 163.83 170.34
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.0501 0
MYR 0 6104 0
NOK 0 2300 0
NZD 0 14921 0
PHP 0 420 0
SEK 0 2395 0
SGD 18629 18759 19497
THB 0 693.1 0
TWD 0 768 0
XAU 8300000 8300000 8500000
XBJ 7700000 7700000 8200000
Cập nhật: 15/10/2024 00:47